Giá dầu phục hồi
Chốt phiên dầu thô Brent tăng 73 US cent hay 1,1% lên 69,35 USD/thùng. Dầu Brent đã giảm từ mức đỉnh hơn 77 USD/thùng đạt được hồi đầu tháng 7, mức cao nhất kể từ cuối năm 2018.
Dầu WTI đóng cửa tăng 1 USD hay 1,5% lên 67,42 USD/thùng sau khi xuống mức thấp 65,21 USD/thùng.
Tồn kho của Mỹ dự kiến giảm tuần thứ 9 liên tiếp trong tuần này. Trong khi đó, OPEC dự kiến nhu cầu dầu toàn cầu tăng 6,6% trong năm 2021.
Vàng tăng nhẹ
Thị trường vàng có một phiên giao dịch biến động khi USD mạnh lên, hạn chế dòng tiền chảy vào kim loại này bất chấp những lo ngại về số ca nhiễm Covid-19 tăng vọt.
Vàng giao ngay không đổi tại 1.811,51 USD/ounce, trong khi vàng Mỹ kỳ hạn tháng 8 đóng cửa tăng 0,1% lên 1.811,4 USD/ounce.
USD lên mức cao nhất trong 3,5 tháng làm giảm sức hấp dẫn của vàng.
Giá đồng tăng
Giá đồng lấy lại một phần tổn thất trong phiên trước, khi số ca nhiễm virus corona tăng cao gây ra tình trạng bán tháo các tài sản như kim loại, cổ phiếu và dầu.
Đồng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 1,4% lên 9.347,5 USD/tấn sau khi giảm 2,2% trong phiên trước đó. Giá đã đạt mức cao kỷ lục 10.747,5 USD/tấn hồi tháng 5.
Dự trữ đồng của sàn LME tăng lên 212.725 tấn, cao nhất kể từ tháng 5/2020. Tuy nhiên, tồn kho của sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải và sàn Comex đều giảm.
Than luyện cốc Đại Liên tăng lên mức cao nhất trong hơn 2 tháng
Than luyện cốc tăng hơn 3% trong bối cảnh thiếu hụt nguồn cung.
Than luyện cốc kỳ hạn tháng 9 tăng khoảng 3,2% lên 2.098 CNY (323,54 USD)/tấn, cao nhất kể từ ngày 13/5. Kết thúc phiên giao dịch giá tăng 2% lên 2.074 CNY/tấn.
Than cốc tăng 2,6% lên 2.738 CNY/tấn.
Sản lượng than cốc của Trung Quốc trong tháng 6 giảm 3,2% xuống 38,91 triệu tấn so với cùng tháng năm 2020.
Quặng sắt tại sàn giao dịch Đại Liên đóng cửa tăng 0,3% lên 1.233 CNY/tấn trong khi quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% Fe xuất sang Trung Quốc giảm 50 US cent xuống 222,5 USD/tấn trong ngày 19/7, theo công ty tư vấn SteelHome.
Thép thanh tại Thượng Hải giao tháng 10 giảm 0,2% xuống 5.601 CNY/tấn. Thép cuộn cán nóng giảm 0,6% xuống 5.968 CNY/tấn. Thép không gỉ giao tháng 8 giảm 1,6% xuống 18.490 CNY/tấn.
Công ty khai thác Vale SA của Brazil cho biết họ đã sản xuất 75,87 triệu tấn quặng sắt trong quý 2, tăng 1,3% so với quý trước đó.
Cao su Nhật Bản giảm
Giá cao su Nhật Bản giảm sau khi số liệu của chính phủ cho thấy lạm phát tại nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới này tăng nhanh nhất trong hơn một năm, nhấn mạnh ảnh hưởng của giá hàng hóa tăng cao.
Giá tăng làm giảm nhu cầu đối với các hàng hóa công nghiệp gồm cao su. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 12 trên sàn giao dịch Osaka giảm 7,4 JPY hay 3,5% xuống 206,7 JPY/kg.
Cao su tại Thượng Hải giao tháng 9 giảm gần 5% xuống 1.920 CNY/tấn.
Cà phê tăng hơn 6%
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 9 đóng cửa tăng 10,4 US cent hay 6,6% lên 1,668 USD/lb, gần mức đỉnh 4,5 năm.
Cà phê robusta cùng kỳ hạn tăng 29 USD hay 1,7% lên 1.761 USD/tấn, trong phiên giá đã đạt mức cao nhất 3 năm tại 1.793 USD/tấn.
Các nhà môi giới và phân tích cho biết đã xuất hiện thông tin về tình trạng băng giá tại các khu vực trồng cà phê tại Brazil đêm qua, lần thứ hai trong chưa tới một tháng. Băng giá có thể gây ảnh hưởng nhiều hơn tới các trang trại ở khu vực trồng cà phê chủ yếu như các bang Minas Gerais và Sao Paulo.
Cây cà phê cực kỳ nhạy cảm với băng giá vì nó có thể làm rụng lá và có thể giảm sản lượng tiềm năng cho vụ tới.
Giá đường tăng
Đường thô kỳ hạn tháng 10 tăng 0,34 US cent hay 2% lên 17,41 US cent/lb.
Băng giá tại Brazil trong sáng ngày 20/7 đã ảnh hưởng tới một số khu vực trồng mía ở bang Sao Paulo nhưng các nhà phân tích cho biết sẽ mất vài ngày để xác định mức độ thiệt hại. Sản lượng mía tại Brazil trong năm nay có thể giảm đi do hạn hán và băng giá.
Đường trắng kỳ hạn tháng 10 đóng cửa tăng 5,5 USD hay 1,2% lên 449,3 USD/tấn.
Đậu tương, ngô, lúa mì tăng
Các mặt hàng đậu tương, ngô, lúa mì trên sàn giao dịch Chicago đều tăng do đánh giá của Bộ Nông nghiệp Mỹ cho thấy tình trạng vụ mùa yếu hơn.
Đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 8 tăng 15-1/2 US cent lên 14,43 USD/bushel, hợp đồng kỳ hạn tháng 11 được giao dịch nhiều nhất tăng 15-3/4 US cent lên 13,88-1/2 USD/bushel.
Ngô CBOT kỳ hạn tháng 12 tăng 13-1/2 US cent lên 5,65-3/4 USD/bushel, trong khi kỳ hạn tháng 9 gần hơn tăng 15-3/4 US cent lên 5,71-3/4 USD/bushel.
Lúa mì vụ đông mềm đỏ kỳ hạn tháng 9 đóng cửa tăng 2-3/4 US cent lên 7,00-1/2 USD/bushel sau khi đạt 7,18 USD, mức cao nhất kể từ 18/5.
Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 21/7:
Theo Trí thức trẻ