Diện tích quyền sử dụng đất không thống nhất do “lỗi đánh máy”
Theo đó, Kết luận Thanh tra số 07/KL-TTR chỉ rõ diện tích quyền sử dụng đất giữa Chứng thư thẩm định giá và kết quả bán đấu giá không thống nhất. Cụ thể, theo Chứng thư thẩm định giá số 308B/2014/CT-VALUCO ngày 02/4/2014 của Công ty Cổ phần Thẩm định giá và Tư vấn Quốc tế thì tổng diện tích quyền sử dụng đất thuộc dự án khu dân cư Mỹ Phước 4 là 358.740,3m2. Chứng thư nói trên là căn cứ để xác định giá khởi điểm của tài sản đấu giá theo hợp đồng bán đấu giá tài sản số 11/2014/ĐGNSG ngày 18/6/2014.
Nhiều sai phạm nghiêm trọng được Cơ quan Thanh tra Bộ Tư pháp chỉ rõ tại Kết luận Thanh tra tại dự án khu dân cư Mỹ Phước 4
Tuy nhiên, diện tích quyền sử dụng đất thuộc dự án khu dân cư Mỹ Phước 4 theo Hợp đồng đấu giá chỉ có 355.918,59m2. Chênh lệch diện tích với Chứng thư thẩm định giá là 2.821,71m2.
Khi Công ty Nam Sài Gòn có Thông báo bán đấu giá số 26/TB-ĐG ngày 19/6/2014 đã điều chỉnh lại diện tích đất được đấu giá để phù hợp với Chứng thư thẩm định giá nhưng Công ty Nam Sài Gòn và Agribank Chợ Lớn không thực hiện điều chỉnh lại Hợp đồng dịch vụ đấu giá là chưa chặt chẽ.
Sau khi điều chỉnh lại các tài sản bán đấu giá (bán riêng khu B1, B2 và bán gộp Khu A dự án Mỹ Phước 4 với Dự án Cầu Đò) thì diện tích đất khu B1 và B2 Dự án Mỹ Phước 4 lại không thống nhất, cụ thể: Theo Chứng thư thẩm định giá số 308B nói trên (làm căn cứ xác định giá khởi điếm) thì Khu B có tổng diện tích là 221.351,3m2, trong đó: khu B1 có diện tích: 45.854,4m2 và khu B2: 175.496,9m2. Tuy nhiên, tại Phụ lục hợp đồng đấu giá ngày 28/8/2015 giữa Công ty Nam Sài Gòn và Agribank Chợ Lớn thì diện tích đất khu B1 được đấu giá lại là: 45.351,4m2 (chênh lệch với Chứng thư thẩm định giá là 501m2).
Theo Thông báo đấu giá số 55/TB-ĐG ngày 01/9/2015 (thông báo của lần bán đấu giá thành) thì tổng diện tích đất dự án (khu B Mỹ Phước 4) được đấu giá là 221.351,3m2 với giá khởi điểm là 77 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo Biên bản đấu giá ngày 09/10/2015, Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá ngày 16/10/2015 được công chứng thì diện tích đất đấu giá chỉ còn lại: 218.529,5m2 (chênh lệch với Chứng thư thẩm định giá, Thông báo bán đấu giá là 2.821,8m2).
Theo giải trình của Công ty Nam Sài Gòn (ngày 22/10/2019 và ngày 03/01/2020) lý do có sự chênh lệch diện tích đất đấu giá giữa Chứng thư thẩm định giá và Thông báo đấu giá là: “do Văn phòng công chứng và Ngân hàng yêu cầu ghi đúng với diện tích trong các Hợp đồng thế chấp và 51 Giấy chứng nhận QSDĐ. Ngoài ra, trong quá trình thông báo và bán đấu giá tài sản đều căn cứ vào giá khỏi điểm của Chứng thư thẩm định giá để thông báo bán đấu giá và giảm giá tài sản nên không ảnh hưởng đến giá trị của tài sản bán đấu giá. Mặt khác sau khi đấu giá các bên đã giao nhận tài sản trên thực địa, các bên đều không có ý kiến gì đối với diện tích đất đã nhận và không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên. Việc có sự không đồng nhất về số liệu diện tích nêu trên là do sơ suất, thiếu sót, nhầm lẫn và lỗi đánh máy của một số người soạn thảo văn bản đó”. Tuy nhiên, hồ sơ đấu giá không có tài liệu nào chứng minh, giải thích cho sự chênh lệch diện tích giữa Chứng thư thẩm định giá làm căn cứ xác định giá khởi điểm với kết quả bán đấu giá thực tế được ghi nhận tại Biên bản đấu giá, Hợp đồng mua bán tài sản được công chứng.
Hồ sơ đấu giá không lưu trữ tài liệu thể hiện niêm yết Thông báo đấu giá tại địa điểm theo quy định pháp luật
Thông báo số 53/TB-ĐG ngày 14/11/2014 bán đấu giá tài sản toàn bộ quyền sử dụng đất của dự án Khu dân cư Cầu Đò và Khu A dự án Khu dân cư Mỹ Phước 4 (lần bán đấu giá thành), hồ sơ không có tài liệu thể hiện niêm yết thông báo tại trụ sở UBND phường Mỹ Phước (UBND nơi có tài sản đấu giá, chỉ có tài liệu thể hiện UBND phường xác nhận đã niêm yết Thông báo bán đấu giá số 54 để bán quyền sử dụng đất tại Khu B1 và B2 dự án Mỹ Phước 4 ngày 14/11/2014).
Theo giải trình của Công ty Nam Sài Gòn thì: “UBND phường An Điền chỉ xác nhận đối với Thông báo bán đấu giá số 54, còn đối với Thông báo số 53/TB-ĐG thì UBND phường nói không cần xác nhận vì diện tích đất và tài sản ở xã An Điền lớn hơn nhiều so với tài sản ở Mỹ Phước nên UBND phường chỉ xác nhận đối với Thông báo số 53. Mặt khác, tài sản bán đấu giá đã lâu và hồ sơ lưu trữ không đầy đủ do bị thất lạc…”.
Như vậy, hồ sơ đấu giá của Công ty Nam Sài Gòn không có tài liệu thể hiện việc niêm yết Thông báo số 53/TB-ĐG ngày 14/11/2014. Tại thời điểm đấu giá tài sản là quyền sử dụng đất Khu dân cư Cầu Đò (ngày 5/12/2014), việc lưu trữ hồ sơ đấu giá được thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 18 Thông tư 23/2010/TT-BTP ngày 06/12/2010 của Bộ Tư pháp. Tuy nhiên, quy định nói trên chỉ quy định chung chung về trách nhiệm lưu trữ hồ sơ của tổ chức đấu giá, chưa quy định thời hạn lưu trữ cụ thể như Khoản 1 Điều 54 Luật Đấu giá tài sản (có hiệu lực từ ngày 01/7/2017). Do vậy, việc Công ty Nam Sài Gòn để thất lạc tài liệu thể hiện việc niêm yết Thông báo số 53/TB-ĐG ngày 14/11/2014 bán đấu giá tài sản toàn bộ quyền sử dụng đất của dự án khu dân cư Cầu Đò và khu A dự án khu dân cư Mỹ Phước 4 là chưa thực hiện nghiêm túc quy định Khoản 2 Điều 18 Thông tư 23/2010/TT-BTP ngày 06/12/2010 của Bộ Tư pháp.
Tấn Phát-ĐT